"Đài Nghiên, tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng lên non nước này"
Năm 1865, Nguyễn Văn Siêu xây dựng Tháp Bút , Đài Nghiên.
Câu ca ấy như nhắc nhở lớp lớp người dân Việt Nam luôn nhớ đến công lao xây dựng non nước của cha ông ta.
Tháp Bút trầm mặc, Đài Nghiên lửng lơ, Đình Trấn Ba vững vàng bên mép nước hồ Gươm, từ lâu đã là một nét văn hoá của Thủ đô, đã in sâu vào tâm trí của người Hà Nội, của nhân dân cả nước. Tháp Bút - Đài Nghiên bên hồ Hoàn Kiếm trước cửa đền Ngọc Sơn là một công trình kiến trúc độc đáo, nổi tiếng của Thăng Long từ nhiều đời nay. Người có công lao và trí đức sáng tạo nên chúng là Nguyễn Văn Siêu, quê làng Kim Lũ (tục gọi Kẻ Lủ), huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội.
Ông sinh năm Kỷ Mùi (1799), qua đời năm Nhâm Thân (1872). Là danh sĩ đời vua Tự Đức, tên tự Tốn Ban, tên hiệu Phương Đình. Ông đậu phó bảng năm 39 tuổi, làm quan đến chức Kiểm thảo Viện Hàn Lâm, rồi trải qua các chức vụ Chủ sự Bộ lễ, Thị giảng học sĩ... Ông là bạn thân của danh sĩ Cao Bá Quát, kém ông 10 tuổi (Kỷ Tỵ 1809- Giáp Dần 1854). Thời ấy trong nhân dân có câu Thần Siêu, Thánh Quát để ca ngợi tài năng xuất chúng hơn người của hai ông. Thần Siêu còn lưu lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn học, triết học, địa chí... rất có giá trị. Hiện nay ở Thủ đô Hà Nội có phố mang tên Nguyễn Văn Siêu.
Trong nền văn hoá Hán Nôm thì bút và nghiên được coi trọng với tư cách là báu vật vô cùng quý giá, tượng trưng cho văn học thành văn của dân tộc Việt Nam cổ trung đại. Bút - nghiên- mực - giấy (giấy bản) được coi là 4 vật báu ở phòng văn (văn phòng Tứ Bảo).
Nguyễn Văn Siêu khi làm án sát Hưng Yên, năm 1854 khi triều đình Huế bàn bạc về việc bỏ đê đã gửi sớ xin khẩn thiết giữ đê, vì kinh nghiệm cho hay: Hàng năm, nếu không hộ đê, khi lũ thượng nguồn tràn về, dân Phú Thọ, Sơn Tây, Hưng Yên, Sơn Nam nơm nớp lo sợ. Đê nơi nào vỡ, thì dân nơi đó mất lúa, nhà trôi, phải chịu cảnh màn trời chiếu đất, lòng người ly tán. Có giữ đê mới giúp dân có cuộc sống ổn định. Lời sớ không hợp ý vua Tự Đức. Thế là Cụ Siêu bị hạ 3 cấp, cho cáo quan. Trở về chốn cũ ở Giang Nguyên, huyện Thọ Xương, Hà Nội, Cụ Siêu lại chăm lo giảng bài cho môn sinh, tận mắt chứng kiến nhiều đền, chùa, miếu mạo bị huỷ hoại, bị làm mất những giá trị vốn có.
Như chùa Ngọc Sơn đã bị thời gian huỷ hoại, trên nền chùa quan Nguyễn Tín xây miếu thờ Quan Công, gác chuông chùa Ngọc Sơn bị các vị trong hội phả Ngọc Sơn lớp cũ phá dỡ, xây miếu thờ Thần ban phát công danh phúc lộc, trái với tập tục của Thăng Long.
Trước cảnh nhiều đền chùa bị huỷ hoại, thay vào đó là những đền đài thờ cúng trái với điển lễ, Nguyễn Văn Siêu đã tìm cách cứu vãn.
Tại Hậu cung Đền Ngọc Sơn đặt thêm 2 ban thờ: Ban thờ các Tôn Thần Sông Núi bản địa (Việt Nam); Ban thờ Thượng phụ Đại Vương Trần Hưng Đạo đã làm cho đền Ngọc Sơn không còn là nơi chỉ thờ các vị Thánh Thần Trung Hoa mà thờ cả các vị Thánh Thần Việt Nam.
Phía ngoài đền Ngọc Sơn, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu cùng sĩ phu Hà Thành quyên góp tiền bạc, tao dựng Tháp Bút, Đài Nghiên, Đình Trấn Ba nêu những vấn đề nội cộm của thời đó.
Năm Ất Sửu (1865), Nguyễn Siêu dựng Tháp Bút, bài trí ở mặt tháp quay ra hồ Hoàn Kiếm, tháp Bút được xây bằng gạchTháp vuông có năm tầng, cao cả thảy 28m. Đỉnh là một ngòi bút dựng ngược. Cả cán và ngòi cao 0,9m. Trên thân ba tầng giữa có khắc theo chiều dọc ba chữ Tả Thanh Thiên có nghĩa và Viết (lên) trời xanh. , dựng trên ngọn núi do đá xếp (núi Độc Tôn), đường kính 12m, cao 4m. Tháp được xây trên gò “núi Độc Tôn”- Gò này tượng trưng cho 1 ngọn núi (theo thuật phong thủy cổ, cao nhất thốn giả vi sơn tức là chỉ cần cao một tấc thì cũng là núi rồi), được đắp để kỷ niệm cuộc dẹp yên ở núi Độc Tôn, Phổ Yên, Thái Nguyên.
Có lẽ cũng nên ghi nhớ thêm là cùng lúc đắp núi Độc Tôn ở bờ Đông hồ thì chúa Trịnh còn cho đắp núi Ngọc Bội bên bờ Tây hồ (Ngọc Bội ở trên Phổ Yên là ngọn núi mà nhà Trịnh đóng quân, còn Độc Tôn là doanh trại của Nguyễn Danh Phương). Cạnh núi có cung Khánh Thụy. Sang đời Lê Chiêu Thống đã cho đốt cung này, song tên thì còn lưu lại ở 2 ngôi làng ở 2 bên cung là Tả Khánh Thụy và Hữu Khánh Thụy. Sang đời Nguyễn 2 làng này nhập vào làng Báo Thiên thành làng Báo Khánh. Nay còn phố Báo Khánh là di tích.
Tháp là biểu tượng văn vật. Núi biểu tượng võ công. Tháp nhờ núi mà được nâng cao. Núi nhờ Tháp mà được lưu truyền. Văn vật và võ công dựa vào nhau mà cùng tồn tại, cùng có giá trị, cùng lưu truyền. Võ công và văn vật cùng vì một mục đích sẽ tạo nên sự bất hủ, ý rằng, phải trọng cả văn và võ sẽ tạo nên những kỳ tích muôn đời.
Vào thập kỷ thứ 7 của thế kỷ XIX, thực dân Pháp ráo riết xâm lược đất nước ta. Năm 1863, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam bộ, triều đình Huế có phe chủ chiến, có phe chủ hoà. Khi đó, Nguyễn Văn Siêu đã về hưu trí, có thể lấy cớ tự cho mình không có trách nhiệm với thời cuộc. Nhưng với tấm lòng lo đời, Cụ tự thấy mình có trách nhiệm với đất nước, đã cùng sĩ phu Hà thành xây Tháp Bút Đài Nghiên, Đình Trấn Ba và đề chữ ở 3 công trình này, góp tiếng nói sáng suốt, củng cố lòng tin vào truyền thống văn võ của cố đô Thăng Long, của đất nước.
Ở thân Tháp Bút đề 3 chữ "Tả thanh thiên". Tôi hiểu "thanh thiên"là từ nói lửng của thành ngữ "Thanh thiên bạch nhật", và dịch nghĩa 3 chữ "Tả thanh thiên" là:
- Viết giữa thanh thiên bạch nhật
- Viết sự thật đặt trước mặt mọi người.
Tại chân Tháp Bút, phía bên phải, Nguyễn Văn Siêu cho dựng miếu Sơn Thần đề chữ: "Sơn thần miếu" và câu đối:
"Cố điện hò sơn lưu vương khí
Tan từ hương hoả tiếp dư linh".
Nghĩa: "Cố đô núi hồ lưu vượng khí
Đền mới hương lửa tiếp linh xưa".
Ý là: Phải viết về nhũng vấn đề của đất nước, phải nối tiếp truyền thống của cố đô Thăng Long.
Viết sự thật của đất nước, để nối tiếp truyền thống của cố đô Thăng Long là một công việc không mấy ai dám viết. Ai là người dám đảm đương công việc này. Cụ Siêu dựng bia nhỏ đề 5 chữ "Thái Sơn thạch đảm đương". Nghĩa: Người vững vàng dám đảm đương. Ý là người vững vàng phải dám viết sự thật, nói sự thật giữa thanh thiên bạch nhật, đặt ra trước mặt mọi người.
Thần Siêu xây bên cạnh Tháp Bút một Đài Nghiên. Trên tầng sàn đặt nghiên, đó là một cái cửa cuốn trên có bê một cái nghiên bằng đá tạo theo hình nửa quả đào, bằng đá xanh đẽo tạc theo hình nửa quả đào, cắt ngang theo chiều dọc, khoét lõm. Bề dài quả đào 0,97m, bề ngang 0,8m, cao 0,3m, chu vi 2m, có ba con thiềm thừ (con cóc) đội nghiên như ba cái chân kiềng.